Khái lược sự hình thành, phát triển của khoa học kinh tế chính trị

Từ thời cổ đại, con người đã có mong muốn giải thích các hiện tượng kinh tế. Mong muốn đó bắt nguồn từ nhu cầu thực tiễn của đời sống kinh tế-xã hội. Các nhà tư tưởng vĩ đại như Arixtote, Platon đã từng giải thích một số quá trình kinh tế, song đó mới chỉ là yếu tố riêng biệt của các tư tưởng kinh tế mà chưa trở thành một khoa học. Kinh tế chính trị chỉ trở thành một bộ môn khoa học độc lập vào thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ Tư bản chủ nghĩa. Người đầu tiên đưa ra thuật ngữ “kinh tế chính trị” là A.Mong Crê Chiên (1575 – 1629) đại biểu nổi tiếng của trường phái Trọng thương Pháp. Ông xem kinh tế chính trị là khoa học về kinh tế nhà nước, nghiên cứu sự tham gia của nhà nước vào đời sống kinh tế, sự hỗ trợ của nhà nước cho quá trình tích luỹ. Lý luận kinh tế của trường phái trọng thương là lý luận đầu tiên nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong buổi bình minh của chủ nghĩa tư bản. Trong thời kỳ này, trọng tâm chú ý của chủ nghĩa Trọng thương là thương mại, họ cho rằng chỉ có thương mại mới tạo nên của cải, lợi nhuận. Do vậy, họ đã giải thích sai bản chất của lợi nhuận và sự giàu có của các dân tộc.

Cùng với sự phát triển của công trường thủ công và thị trường dân tộc, những luận điểm trọng thương chủ nghĩa ngày càng trở nên lỗi thời và không đúng với thực tiễn phát triển của chủ nghĩa tư bản. Trọng tâm chú ý của các nhà kinh tế học tư sản chuyển dần từ lưu thông sang lĩnh vực sản xuất, bởi nguồn gốc của sự giàu có không phải ở tích luỹ tiền mà ở tích luỹ và tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa. Trường phái Kinh tế tư sản cổ điển ra đời thay thế trường phái Trọng thương. Người sáng lập ra kinh tế chính trị tư sản cổ điển là W.Petty (1622-1687) và F. Kê Nê (1694 – 1774), kinh tế chính trị tư sản cổ điển đạt đỉnh cao ở A.Smith (1723-1790) và D.Ri Các Đô (1772-1823). Kinh tế chính trị tư sản cổ điển xác định đối tượng của kinh tế chính trị là nghiên cứu nguồn gốc, bản chất của của cải, sự giàu có của các dân tộc và sự phân phối của cải đó của các giai cấp trong xã hội. Họ khẳng định giá trị của hàng hoá là do lao động tạo ra, còn lợi nhuận, lợi tức, địa tô là những khoản khấu trừ vào sản phẩm của lao động. Khác với trường phái trọng thương chỉ nghiên cứu những hiện tượng kinh tế và tổng kết kinh nghiệm, kinh tế chính trị tư sản cổ điển đã cố gắng đi sâu tìm hiểu cơ cấu sinh lý bên trong của các hiện tượng và quá trình kinh tế nhằm phát hiện ra những quy luật đang chi phối nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, do hạn chế về mặt lịch sử và lập trường giai cấp, kinh tế chính trị tư sản cổ điển còn có rất nhiều hạn chế và sai lầm, ví như đồng nhất sản xuất tư bản chủ nghĩa với quá trình sản xuất nói chung, coi chủ nghĩa tư bản là tồn tại vĩnh viễn, quy luật kinh tế trong chủ nghĩa tư bản là quy luật tuyệt đối.

Bắt đầu từ những năm 30 của thế kỷ XIX, khi mà những mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản đã bộc lộ rõ nét, kinh tế chính trị tư sản đi theo một hướng khác trở thành kinh tế chính trị tư sản tầm thường. Họ chỉ dừng lại ở việc mô tả các hiện tượng kinh tế, biện hộ cho sự bóc lột của giai cấp tư sản, che đậy những mâu thuẫn căn bản của chủ nghĩa tư bản, khẳng định chủ nghĩa tư bản tồn tại vĩnh viễn, mà không đi vào nghiên cứu bản chất của các quá trình kinh tế đang diễn ra. Đại biểu cho trường phái kinh tế chính trị tư sản tầm thường là T.R.Man Tuýt (1766 – 1834) ở Anh và J.B.Say (1767 – 1832) ở Pháp…

Vào giữa thế kỷ XIX, khi giai cấp tư sản đã thực hiện xong cuộc cách mạng công nghiệp, xác lập địa vị vững chắc của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, cùng với sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, giai cấp vô sản cũng phát triển cả về số lượng và chất lượng, từng bước hình thành ý thức giai cấp và bắt đầu cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản. Đó là cơ sở kinh tế – xã hội cho sự ra đời của kinh tế chính trị Mác xít. Trên cơ sở kế thừa có phê phán và phân tích những yếu tố khoa học của kinh tế chính trị tư sản cổ điển và những quan điểm kinh tế của chủ nghĩa xã hội không tưởng, đấu tranh chống lại quan điểm phản động của kinh tế chính trị tiểu tư sản và kinh tế chính trị tư sản tầm thường, C.Mác (1818-1883) và Ph.Ăngghen (1820-1895) đã làm một cuộc cách mạng trong kinh tế chính trị. Dựa trên phép biện chứng duy vật, bắt đầu từ các phạm trù kinh tế, C.Mác đã chỉ ra mối quan hệ tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, coi đó là cơ sở của sự phát triển lịch sử xã hội. Ông đã nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống các quy luật kinh tế đang chi phối sự vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Với phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá, phân biệt sức lao động và lao động, Kinh tế chính trị Mác xít đã sửa chữa được những sai lầm, bế tắc của kinh tế chính trị tư sản cổ điển, trên cơ sở đó hoàn thiện học thuyết giá trị, tìm ra nguồn gốc, bản chất của tiền tệ, những quy luật của kinh tế hàng hoá cũng như tác động của các quy luật đó trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Với phát minh vĩ đại: Học thuyết giá trị thặng dư, C.Mác đã vạch rõ cơ chế bóc lột tư bản chủ nghĩa và những hình thái biểu hiện của giá trị thặng dư như lợi nhuận, lợi nhuận bình quân, lợi nhuận thương nghiệp, lợi tức cho vay, địa tô tư bản chủ nghĩa, từ đó chỉ ra quy luật vận động của xã hội tư bản, vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Trên cơ sở phân tích tác động của các quy luật kinh tế trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, phê phán tính phi lịch sử của kinh tế chính trị tư sản cổ điển, C.Mác đã vạch rõ quy luật phát sinh, phát triển và diệt vong tất yếu của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ bị thay thế bởi phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn đó là phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.

Trong hoàn cảnh lịch sử mới, khi mà chủ nghĩa tư bản đã bước từ giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền, V.I.Lênin đã có những cống hiến to lớn trong việc bảo vệ và phát triển lý luận kinh tế của C.Mác. Ông đã xác định rõ hơn đối tượng của kinh tế chính trị theo nghĩa rộng, bổ sung những vấn đề mới liên quan đến sự ra đời của chủ nghĩa tư bản bằng con đường kinh tế, đặc biệt là tiếp tục hoàn chỉnh lý luận tái sản xuất tư bản chủ nghĩa, chỉ ra những quy luật kinh tế của quá trình tái sản xuất, khẳng định khủng hoảng là một tất yếu kinh tế do quan hệ sản xuất tư bản đẻ ra. Ông có công lớn trong việc phát triển kinh tế chính trị Mác xít – bằng việc phân tích chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, chỉ ra bản chất kinh tế, bản chất chính trị của chủ nghĩa đế quốc, con đường và cách thức tiến hành cách mạng vô sản để lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội mới chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa. Lênin cũng là người đặt nền móng cho kinh tế chính trị về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội trên cơ sở những phác hoạ của C.Mác – Ph.Ăngghen và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô do chính Ông lãnh đạo.

Hiện nay kinh tế chính trị Mác – Lênin vẫn tiếp tục được bổ sung, phát triển và hoàn thiện bởi những hoạt động lý luận của các đảng cộng sản và công nhân ở các nước trên thế giới trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy, kinh tế chính trị Mác – Lênin vẫn tỏ rõ sức sống mãnh liệt của nó trong thời đại ngày nay, thời đại loài người đang quá độ từ chế độ tư bản chủ nghĩa sang chế độ xã hội chủ nghĩa.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *