Kế thừa từ lý thuyết về hành động hợp lý (TRA), mô hình TAM (Technology Acceptance Model) nghiên cứu về tính chấp nhận công nghệ của Davis (1985) có liên quan trực tiếp đến vấn đề dự đoán khả năng chấp nhận của một hệ thống thông tin hoặc một mạng lưới máy tính nào đó. Mô hình TAM được nhiều nhà khoa học áp dụng khi tìm hiểu về các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi chấp nhận
và thích ứng công nghệ mới. The o đó, nhận thức về sự hữu ích và tính dễ sử dụng của công nghệ sẽ quyết định đến thái độ có chấp nhận sử dụng hay không và hành vi sử dụng công nghệ là kết quả cuối cùng. Nhận thức lợi ích công nghệ là sự hiểu biết và cá nhân đó tin rằng việc sử dụng công nghệ sẽ giúp ích nâng cao hiệu quả công việc họ đang làm mà không cần quá nhiều sự cố gắng để đáp ứng. Tác giả lựa chọn nghiên cứu mô hình này do phạm vi nội dung luận án có xét đến yếu tố tuân thủ thuế trong bối cảnh ứng dụng thuế điện tử, đòi hỏi cả DN và CQT đều phải thay đổi phương thức truyền thống trước đây là trên giấy sang giao diện điện tử. Để tuân thủ thuế tốt đối với phương thức quản lý mới thì việc xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi chấp nhận công nghệ là thực sự cần thiết. Mô hình này cũng cho thấy khả năng chấp nhận của một hệ thống thông tin được xác định bởi hai yếu tố cơ b ản là nhận thức tính hữu ích và nhận thức hình thức dễ sử dụng. Theo Davis, tác giả của mô hình chấp nhận công nghệ TAM, thái độ của một cá nhân không phải là yếu tố duy nhất quyết định người dùng sử dụng một hệ thống, mà nó còn phụ thuộc vào tác động của hệ thống đối với hiệu suất làm việc của người đó. Chính vì vậy, ngay cả khi một nhân viên không đồng tình một hệ thống thông tin, thì xác suất c ao người đó sẽ sử dụng nó bởi họ nhận ra rằng, hệ thống sẽ cải thiện được năng suất làm việc, từ đó tạo hiệu quả trong công việc. Ngoài ra, mô hình chấp nhận công nghệ còn đưa ra giả thuyết về mối liên hệ giữa tính hữu dụng nhận thức của con người và tính dễ sử dụng của hệ thống. |