Về lý thuyết tuân thủ thuế
Theo tổng hợp từ các nghiên cứu quốc tế về tuân thủ thuế đƣợc chia làm 3
nhóm lý thuyết bao gồm: (i) lý thuyết kinh tế, (ii) lý thuyết xã hội – tâm lý – hành
vi, (ii) lý thuyết hỗn hợp kinh tế – xã hội – tâm lý – hành vi.
(i). Nghiên cứu về tuân thủ thuế dựa vào các lý thuyết kinh tế:
Lý thuyết kinh tế tiên phong cho nghiên cứu định lƣợng về vấn đề tuân thủ
và trốn thuế là lý thuyết thỏa dụng đƣợc phát triển bởi Allingham và Sandmo
(1972) và Srinivasan (1973). Khi mà lợi ích của việc trốn thuế lớn hơn những chi
phí tuân thủ thì nhìn chung NNT sẽ tìm mọi cách tối đ hó lợi ích của họ bằng việc
tối thiểu hóa thu nhập tính thuế và số thuế phải nộp thông qua các báo cáo thuế. Họ
dám chấp nhận mạo hiểm trốn không kê khai một phần hoặc tất cả thu nhập thực tế
nếu xác suất bị CQT phát hiện là thấp. Tuy nhiên nếu CQT thực hiện thanh tra chặt
chẽ, chi phí tuân thủ sẽ c o hơn khi NNT ị phát hiện vi phạm, số tiền phạt sẽ làm
giảm thu nhập hơn nhiều so với khoản thanh toán thuế. Nói cách khác, lợi ích của
việc tuân thủ thuế lớn hơn cơ hội trốn thuế và NNT sẽ chọn chấp hành. Từ lý thuyết
này xác định 4 nhân tố có tính quyết định đến hành vi tuân thủ là: thuế suất, thu
nhập tính thuế thực tế của NNT, xác suất bị kiểm tra thuế và mức xử phạt. Qua việc
phân tích các mô hình toán học, cho thấy mối quan hệ tỉ lệ thuận giữa nhân tố xử
phạt và sự gi tăng kiểm tra thuế với việc kê kh i tăng thu nhập thực tế của NNT.
Có nghĩ là NNT sẽ chấp hành cung cấp các thông tin chính xác và trung thực về
thu nhập thực tế khi tính thuế nếu CQT áp dụng nhiều biện pháp thanh tra, kiểm tra
một cách thƣờng xuyên với những mức phạt hành chính c o. Ƣu điểm của lý thuyết
này là có thể giúp CQT lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra thuế tối ƣu nhằm tăng
cƣờng tính tuân thủ. Hầu hết các nghiên cứu tuân thủ thuế dựa trên biến kinh tế đều
sử dụng lý thuyết này. Đồng qu n điểm rằng biện pháp trừng phạt và khả năng ị
10
phát hiện sẽ làm giảm hành vi không tuân thủ thuế, các nghiên cứu thực nghiệm kế
thừa lý thuyết răn đ của Allingham và Sandmo (1972) là Baldry (1986), Webley
(1991), Pate và Hamilton (1992), Alm và cộng sự (1992), Jackson và Jaouen
(1989), Sh nmug m (2003), Du in (2007). Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng
nghiên cứu này còn khiếm khuyết là biến xác suất bị kiểm tra mặc định không đổi,
song trên thực tế tần suất thanh, kiểm tra thuế của CQT phụ thuộc vào mức độ rủi ro
củ NNT cũng nhƣ số thu nhập tính thuế báo cáo trong tờ khai thuế.
Ngƣợc lại, Sour (2001) cho rằng nếu tăng cƣờng xử phạt và kiểm tra thuế
một cách quá mức sẽ dẫn đến mối quan hệ ngƣợc chiều với tuân thủ thuế. Trong khi
đó nếu Chính phủ xây dựng niềm tin tốt đẹp với NNT đồng thời nâng cao chất
lƣợng dịch vụ công, những nhân tố này có tác động tích cực, gi tăng tuân thủ tự
nguyện của NNT. Tuy nhiên, nghiên cứu của Sour vẫn có điểm hạn chế khi biến
xác suất kiểm tra thuế là ngoại sinh và độc lập với biến thu nhập thực tế của NNT
bởi lẽ thực tế cho thấy, mức độ tuân thủ phụ thuộc vào độ lớn của thu nhập thực tế
củ NNT cũng nhƣ xác suất bị CQT thanh tra, kiểm tra phụ thuộc vào thu nhập
trong báo cáo thuế. Hơn nữa mỗi loại thu nhập có rủi ro báo cáo khác nhau và tỉ lệ
bị phát hiện vi phạm là không giống nhau. Do vậy kết quả của Sour chỉ phù hợp với
cách thức quản lý trong ngắn hạn.
Không phủ nhận những đánh giá về nhân tố ảnh hƣởng đến tuân thủ thuế
theo lý thuyết kinh tế, song sẽ phiến diện nếu bỏ qua những nhân tố quan trọng khác
nhƣ đạo đức, trách nhiệm xã hội của NNT. Bởi lẽ qua quan sát thấy rằng tuân thủ
thuế không chỉ phụ thuộc vào kinh tế của NNT, các nhà khoa học tiếp tục đi tìm lời
giải cho câu hỏi liệu các nhân tố xã hôi, tâm l , hành vi có tác động đến tuân thủ
thuế hay không.
(ii). Nghiên cứu tuân thủ thuế dựa vào các lý thuyết về xã hội, tâm lý, hành vi
Các nhân tố liên qu n đến con ngƣời mới quan trọng và quyết định đến hành
vi tuân thủ thuế. Đây là nhận định của các nghiên cứu dựa trên lý thuyết tâm lý,
hành vi của Elffers và cộng sự (1987), Tan (1998), Hite (1997), Torgler và cộng sự
(2003, 2004, 2005, 2006, 2007, 2008).. Tiêu biểu là công trình của Torgler (2003)
nghiên cứu tại Costa Rica và Thụy Sĩ cho thấy chuẩn mực xã hội về đạo đức tuân
thủ thuế, đƣợc đo lƣờng qua biến nhận thức tuân thủ thuế của cá nhân và ý kiến số
đông, có tác động tích cực đến hành vi chấp hành nghĩ vụ thuế. Tác giả kiểm định mối
quan hệ giữa nhân tố sự tin tƣởng cơ qu n Nhà nƣớc của NNT và cấu trúc hệ thống
luật pháp là tích cực với thái độ tuân thủ thế. Ngoài r văn hó đị phƣơng và ản sắc
11
quốc gia khác nhau dẫn đến mức độ tuân thủ thuế không đồng đều giữa các NNT.
Các nghiên cứu dựa vào lý thuyết xã hội, tâm lý hành vi hầu hết phản bác kết
quả của lý thuyết kinh tế, bởi họ cho thấy sự ép buộc, cƣỡng chế củ CQT không đ m
lại sự tuân thủ tốt c o hơn. Trong đó, việc bị giám sát kiểm tra thuế có ảnh hƣởng tiêu
cực mạnh mẽ đến tuân thủ thuế hơn là mức phạt. Ngoài ra, việc kiểm tra thuế thƣờng
xuyên với mức phạt hà khắc không mang lại niềm tin giữ ngƣời dân với Chính phủ,
dẫn đến việc NNT tìm mọi cách kháng cự các yêu cầu củ Nhà nƣớc.
Tuy nhiên để chứng minh đƣợc lý thuyết xã hội, tâm lý, hành vi thì chủ yếu
phải thực hiện qu phƣơng pháp định tính là phỏng vẫn theo mẫu và khảo sát qua
bảng hỏi, do các thông tin về tâm l và thái độ NNT không thể hiện qua các báo cáo
thuế, dẫn đến mức độ chính xác của kết luận nghiên cứu là không cao.
(iii). Nghiên cứu tuân thủ thuế kết hợp lý thuyết kinh tế và xã hội, tâm lý,
hành vi
Nghiên cứu tổng hợp các nhân tố gồm kinh tế, xã hội, tâm l và hành vi đƣợc
Molero và Pujol (2012) sử dụng trong phân tích chi phí tuân thủ thuế. Trong đó
biến phi kinh tế là danh tiếng củ NNT đƣợc đƣ vào, nhƣ là cầu nối cho thấy mối
quan hệ giữa tuân thủ thuế và ý thức thuế. Các tác giả cho rằng khi NNT có tiếng
tăm nhất định, sẽ không đánh đổi danh tiếng này bằng việc trốn thuế ngay cả khi có
cơ hội làm việc đó. Việc phát hiện biến “ nh tiếng” đƣợc cho là điểm mới sáng giá
của nghiên cứu, tuy nhiên đối tƣợng thực hiện phỏng vấn và khảo sát là sinh viên,
không đại diện cho nhóm ngƣời có danh tiếng và các doanh nghiệp có thƣơng hiệu.
Đây đƣợc coi là hạn chế của nghiên cứu này. Alm và cộng sự (1992) lập luận rằng
để khuyến khích ngƣời dân tuân thủ thuế thì thay vì các biện pháp răn đ , xử phạt,
cần có các hình thức kh n thƣởng cho việc tuân thủ thuế tốt hoặc Chính phủ phải
thể hiện việc sử dụng tiền thuế của dân một cách trách nhiệm và hiệu quả. Các hành
động trên sẽ đẩy mạnh động cơ sẵn sàng chấp hành nghĩ vụ thuế. Nói tóm lại, hành
vi tuân thủ thuế không đƣợc quyết định hoàn toàn nếu chỉ dựa vào một nhân tố đơn
lẻ. Do vậy, tổng hòa các lý thuyết kinh tế, xã hội, tâm lý, hành vi là cần thiết và phù
hợp. Trên thực tế, nhiều nhà khoa học tiếp cận phƣơng thức trên để hƣớng đến quản
lý thuế hiện đại và toàn diện.
Đối với các nghiên cứu trong nƣớc, Nguyễn Thị Lệ Thúy (2009) khẳng định
tuân thủ thuế không chỉ đƣợc phân tích theo khía cạnh kinh tế mà còn phải đƣợc
tiếp cận cả tâm lý xã hội và xác định các yếu tố ảnh hƣởng đến sự tuân thủ thuế của
DN phải theo cả hai cách tiếp cận này. Từ lý thuyết hành vi của Braithwaite, tác giả
12
phân tích và đánh giá mức độ tuân thủ của các doanh nghiệp theo mô hình tháp tuân
thủ đƣợc điều chỉnh phù hợp với đặc điểm riêng của doanh nghiệp (quy mô, loại
hình sở hữu, về ngành nghề, tình hình sản xuất kinh doanh, cấu trúc hệ thống thuế,
yếu tố về kinh tế, chuẩn mực xã hội…) thể hiện qua 3 tiêu chí: sẵn sàng thực thi,
tính thuế đúng và nộp thuế đủ. Kết quả nghiên cứu cho thấy doanh nghiệp có vốn
Nhà nƣớc và vốn đầu tƣ nƣớc ngoài thể hiện hành vi tuân thủ tích cực. Kết quả
ngƣợc lại đối với các loại hình doanh nghiệp khác là doanh nghiệp tƣ nhân, công ty
trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Hoài (2011) đề cập các quan niệm về tuân
thủ thuế; phƣơng pháp đánh giá và đo lƣờng mức độ tuân thủ thuế; các nhân tố ảnh
hƣởng đến tính tuân thủ thuế của doanh nghiệp xét đến các nhóm yếu tố về tình hình
kinh tế, xã hội; nhóm yếu tố về chính sách pháp luật nói chung và chính sách thuế nói
riêng; nhóm yếu tố thuộc về quản lý củ cơ qu n thuế và nhóm các yếu tố khác.
Nghiên cứu về tuân thủ thuế
