Tùy thuộc vào mục đích đánh thuế quan, hoạt động kinh doanh, loại hàng hóa, dịch vụ và trong từng điều kiện cụ thể về thị trường và quan hệ thương mại mà các loại thuế quan khác nhau được áp đặt với vai trò khác nhau.
– Thuế nhập khẩu (Import tax)
Thuế nhập khẩu đánh vào các hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu vào một quốc gia hay vùng lãnh thổ. Thuế nhập khẩu có thể đánh vào thành phần hoặc đầu vào nhập khẩu (nguyên vật liệu và bán thành phẩm).
Thuế nhập khẩu có vai trò: Bảo hộ sản xuất trong nước; hướng dẫn tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân; tăng thu cho ngân sách nhà nước; kích thích đầu tư sản xuất trong nước, đặc biệt là sản xuất thay thế nhập khẩu; công cụ gia tăng sức mạnh thương lượng với các đối tác; thuế nhập khẩu làm tăng giá bán trong nước của hàng hóa nhập khẩu và vì vậy, gây thiệt hại cho người tiêu dùng cũng như làm giảm số lượng hàng hóa nhập khẩu.
– Thuế xuất khẩu (Export tax)
Thuế xuất khẩu áp đặt vào hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu của một quốc gia hay vùng lãnh thổ. Thuế xuất khẩu có thể đánh vào thành phần hay đầu vào xuất khẩu (nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm).
Thuế xuất khẩu có vai trò: Bảo vệ nguồn tài nguyên khan hiếm trong nước, bảo vệ môi trường sống; hướng dẫn dầu tư sản xuất và xuất khẩu; điều tiết giá cả hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu nhằm hạn chế tiêu cực do cạnh tranh bán của các doanh nghiệp trong nước; bảo vệ lợi ích của người sản xuất trong nước; tăng thu cho ngân sách nhà nước.
– Thuế theo hạn ngạch (tariff quota)
Thuế theo hạn ngạch là thuế đánh vào hàng hóa nhập khẩu vượt hạn ngạch vào một quốc gia hay vùng lãnh thổ. Số lượng hàng hóa trong hạn ngạch nhập khẩu được hưởng thuế quan thấp, ngoài hạn ngạch càng cao thì thuế càng cao.
Ví dụ: Mức thuế MFN (tối huệ quốc) của Hoa Kỳ năm 2002 áp dụng đối với số lượng trong hạn ngạch bình quân là 9%, trong khi đó mức thuế đối với số lượng vượt hạn ngạch trung bình là 53%.
– Thuế chống bán phá giá (anti-dumping duties)
Thuế chống bán phá giá là một loại thuế quan đặc biệt được áp dụng để ngăn chặn và đối phó với hàng nhập khẩu được bán phá giá vào thị trường nội địa tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh.
Một hàng hóa bị coi là bán phá giá nếu nó được bán với giá “thấp hơn giá trị thông thường của hàng hóa đó”.
Thuế chống bán phá giá sẽ được áp đặt lên hàng hóa nhập khẩu khi có đơn kiện và điều tra của các cơ quan chính phủ nước nhập khẩu kết luận là có bán phá giá.
– Thuế đối kháng (coutervailing duties)
Thuế đối kháng (thuế chống trợ cấp chính phủ) là một khoản thuế đặc biệt đánh vào sản phẩm nhập khẩu bị xác định là đã được chính phủ của nước xuất khẩu trợ cấp trái với quy định của WTO.
Thuế đối kháng quy định một khoản bồi thường dưới dạng thuế nhập khẩu phụ thu để bù vào phần trợ giá của hàng hóa nước ngoài nhập khẩu mà việc bán hàng hóa đó ở nước nhập khẩu gây thiệt hại cho nhà sản xuất hàng hóa giống hoặc tương tự hàng hóa nhập khẩu.
– Thuế thời vụ (seasonal duties)
Thuế thời vụ là loại thuế với mức thuế suất khác nhau cho cùng một loại sản phẩm. Thông thường, thuế thời vụ được áp dụng cho mặt hàng nông sản, khi vào thời vụ thu hoạch trong nước thì áp dụng mức thuế suất cao nhằm bảo hộ sản xuất trong nước, khi hết thời vụ thì trở lại mức thuế bình thường.
– Thuế bổ sung (supplemental duties)
Thuế bổ sung là một loại thuế được đặt ra để thực hiện biện pháp tự vệ trong trường hợp khẩn cấp.
Các chính phủ có thể áp dụng thuế bổ sung cao hơn mức thuế thông thường nếu như khối lượng hàng nhập khẩu của sản phẩm đó tăng lên quá cao gây ảnh hưởng nghiêm trọng hoặc có nguy cơ làm mất đi một ngành sản xuất nào đó trong nước.
– Thuế leo thang
Thuế lao thang là loại thuế đánh vào các mặt hàng chế biến sâu, hàng càng chế biến sâu thì thuế xuất nhập khẩu càng cao.
Loại thuế này có tác dụng khuyến khích nhập khẩu nguyên liệu và hàng sơ chế hơn là hàng thành phẩm.
Ví dụ: Mức thuế MFN (thuế tối huệ quốc) của Hoa Kỳ đối với cá tươi sống hoặc ở dạng phile đông lạnh là 0%, trong khi đó mức thuế đối với cá khô và xông khói là từ 4% đến 6% (cá khô và xông khói được chế biến từ cá tươi sống).