Có 4 phương pháp đánh thuế quan cơ bản: thuế theo giá trị hàng hóa, thuế cố định, thuế hỗn hợp và thuế trung bình.
* Thuế theo giá trị hàng hóa (Ad valorem)
Thuế theo giá trị hàng hóa được tính bằng tỷ lệ % so với giá trị hàng hóa xuất nhập khẩu. Thuế theo giá trị hàng hóa được sử dụng phổ biến ở các nước.
Ví dụ: thuế quan nhập khẩu xe tải của Mỹ là 25% đánh vào giá trị xe tải.
– Ưu điểm: Gắn với giá trị hàng hóa nhập khẩu của doanh nghiệp; không bị xói mòn bởi lạm phát; thuế suất dễ điều chỉnh nên mang tính linh hoạt; dễ hài hòa hóa khi tham gia các liên kết kinh tế quốc tế.
– Hạn chế: Khó chống lại nạn khai man giá trị tính thuế; khai báo hải quan thiếu chính xác, gian lận thương mại, nhất là với hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu
* Thuế cố định (Fixed payment)
Thuế cố định là thu một khoản tiền cố định trên một đơn vị hàng hóa xuất nhập khẩu.
Ví dụ: 3 USD cho mỗi thùng dầu.
– Ưu điểm: Dễ áp dụng; ngăn chặn được hiện tượng làm hóa đơn giả cũng như định ra các loại giá nội doanh nghiệp, chống hiện tượng gian lận thuế.
– Hạn chế: Thuế cố định thường bị xói mòn bởi lạm phát, vì lý do này, các biểu thuế mới thường tính theo giá trị hàng hóa; thuế cố định thường khá cao, vì vậy những người tiêu dùng nghèo hơn thường chịu thuế nặng hơn; hàng nhập khẩu ở các nước đang phát triển, có chất lượng thấp hơn trên thị trường thường chịu thuế nặng hơn và bị cản trở nhiều hơn.
* Thuế hỗn hợp (Compound)
Thuế hỗn hợp vừa tính theo tỷ lệ % so với giá trị hàng hóa, dịch vụ vừa thu một khoản tiền tuyệt đối trên một đơn vị hàng hóa xuất nhập khẩu.
Ví dụ: (2% + 2$)/một đơn vị hàng hóa nhập khẩu.
Phương pháp đánh thuế này sẽ trung hòa ưu và nhược điểm của hai phương pháp đánh thuế theo giá trị hàng hóa và thuế cố định.
* Thuế trung bình
Do có vô số các mức thuế quan khác nhau trong biểu thuế của một quốc gia nên rất khó khăn cho việc dự đoán sự thay đổi thặng dư của người sản xuất và thặng dư tiêu dùng tương ứng với mỗi mức thuế quan cụ thể, từ đó tìm ra sự tăng giảm thiệt hại khi sử dụng hàng rào thuế quan. Hơn nữa, sử dụng các mức thuế quan cụ thể cũng rất khó cho việc phân tích và khẳng định hàng rào thuế quan của một quốc gia nào đó là cao hay thấp và đưa ra được những thỏa thuận trong các cuộc thương lượng song phương hay đa phương.
Phương pháp đánh thuế trung bình đưa ra 2 cách tính cơ bản. Hãy cùng xem ví dụ sau:
STT | Hàng hóa nhập khẩu | Thuế quan (%) | Giá trị hàng hóa |
(USD) | |||
1 | A | 10 | 500 |
2 | B | 15 | 200 |
3 | C | 20 | 100 |
– Cách tính thứ nhất: Tỷ trọng của tỷ lệ thuế trung bình
(10% +15% + 20%)/3 = 15%
Cách tính này thể hiện mỗi tỷ lệ thuế được tính theo tầm quan trọng của tổng lượng hàng hóa nhập khẩu.
– Cách tính thứ hai: Tỷ trọng của tỷ lệ thuế và giá trị hàng hóa trung bình
(10%x$500 +15%x$200 + 20%x$100)/ ($500+$200 +$100) = 12,5%
Với ưu điểm là xem xét đến cơ cấu hàng hóa, dịch vụ xuất nhập khẩu, phản ánh được vai trò của hàng rào thuế quan nên thuế trung bình tính theo tỷ trọng hàng hóa, dịch vụ xuất nhập khẩu thường sử dụng đo lường sự thay đổi mức thuế quan của một nước theo thời gian hoặc so sánh mức thuế quan giữa các nước hoặc giữa các khu vực với nhau. Thuế trung bình cũng được sử dụng để đánh giá hàng rào thuế quan của một quốc gia khi tham gia đàm phán song phương hoặc đa phương và đề ra các mức thuế thỏa thuận.