Ngoài sản phẩm máy móc thiết bị điện, các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang EU chủ yếu là các sản phẩm truyền thống có thế mạnh như: da giày, dệt may, nội thất, thủy sản, máy móc thiết bị – linh kiện; cà phê – trà;… Năm 2020, xuất khẩu ngành Máy móc thiết bị điện (HS 64) đạt kim ngạch lớn nhất (17,8 tỷ USD), chiếm tỷ trọng 42,6%; Da giày đạt 4,9 tỷ USD, tăng 2% so với 2019; ngành Dệt may (HS 61-62-63) đạt kim ngạch là 4,3 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 10,3%, tăng hơn 16% so với năm trước; Cà phê và hồ tiêu giảm tỷ trọng so với năm trước từ 5% xuống còn 3,6%; Thủy sản (HS 03) vẫn giữ mức tỷ trọng 2%, nhưng có giảm nhẹ 4,7% so với năm 2017 với mức đạt được 0,899 tỷ USD. Mức thuế đánh trên các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam sang EU trung bình dao động từ 0 – 22%. Mức thuế quan cao là một trong các nguyên nhân gây bất lợi cho các sản phẩm của Việt Nam khi xuất khẩu sang EU.
* Nhập khẩu của Việt Nam từ EU
5 nhóm sản phẩm nhập khẩu nhiều nhất từ EU gồm có: Máy điện và thiết bị điện (HS 85); Lò phản ứng hạt nhân, nồi hơi và Máy móc thiết bị (HS 84); Dược phẩm (HS 30); Dụng cụ thiết bị quang học và phụ tùng (HS 90); Nhựa plastic (HS 39).
Năm 2020, giá trị nhập khẩu máy điện và thiết bị điện đạt 3 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 22%, tăng 32% so với năm 2019; lò phản ứng hạt nhân và thiết bị (HS 84) đạt 2,6 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 19%, tăng mức giá trị khoảng 23% so năm 2019. Trong khi đó, nhóm dược phẩm (HS 30) đạt 1,7 tỷ USD, tỷ trọng kim ngạch giảm nhẹ 1,5% so với năm 2019 (12,5% so với 14%), Thiết bị quang học và phụ tùng (HS 90) đạt 0,8 tỷ USD, chiếm khoảng 6% như năm 2017; Plastic và các sản phẩm plastic (HS 39) đạt 0,382 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 3% với mức tăng trưởng nhập khẩu không đáng kể so với năm 2019.